Sinh vật phù du Dải sáng rõ

Thực vật phù du phân bố theo phương thẳng đứng do vì tiến hành tác dụng quang hợp, chỉ phân bố ở tầng trên có chiếu sáng ở biểnđại dương (khoảng chừng 0 đến 200 mét, gọi là tầng sáng thật). Ngành Tảo lam thường hay phân bố ở phần trên của tầng sáng thật, lớp Tảo silic thì có thể phân bố ở suốt cả tầng sáng thật. Thực vật phù du đều có phân bố ở các tầng nước trên, giữa và dưới, nhưng mà chủng loại và số lượng không giống nhau.[7] Chi Tảo tóc buộc chủ yếu phân bố ở mặt nước tầng ngoài của vùng biển nghèo thiếu muối dinh dưỡng ở vùng nhiệt đớiá nhiệt đới, đặc điểm môi trường của nó là : cuộn nước tương đối ổn định, độ đậm đặc của muối dinh dưỡng ở vùng biển khá thấp, tỉ lệ thấu qua của ánh sáng khá cao, lượng sinh vật Tảo tóc buộc thông thường ở dòng vọt biên giới (boundary curent) khá lớn, ví như dòng vọt (gush) của vịnh Mêxicô, dòng vọt của Thuỷ triều đenvùng nước hồ dốc của vùng biển nhiệt đới.[8] Chi Tảo tóc buộc đạt tới có lượng sinh vật khá cao ở vùng nước tầng ngoài mà thiếu hụt dinh dưỡng chủ yếu là bởi vì : chi Tảo tóc buộc đạt tới đem khí nitơ trong không khí chuyển hoá thành nguyên tố nitơ tồn tại bằng hình thái hợp chất để cung cấp dinh dưỡng cho bản thân,[9] bởi vì bên trong tế bào của chi Tảo tóc buộc có chứa bọt khí để cho nó cung cấp lực nổi khiến cho toàn thân tảo có khả năng nổi ở vùng nước tầng ngoài, đồng thời do vì tế bào có sẵn kết cấu quang hợp đặc thù khiến cho chi Tảo tóc buộc có khả năng sinh sôi nẩy nở ở trong tầng sáng thấu qua mà độ chiếu sáng khá mạnh.[10] Ở trong hệ thống sinh thái tầng sáng thật của biểnđại dương, quần thể Tảo tóc buộc thông thường cung cấp môi trường rất tốt cho sự sinh trưởng của sinh vật khác (ví như lớp Tảo silic, ngành Trùng tóc hai roi, chủng loại động vật nguyên sinh, lớp Thuỷ tức và á lớp Chân cong) và lại cung cấp dinh dưỡng hữu cơ cho sinh vật khác.[11]